NGƯỜI ĐÀN BÀ Ở BRNO

Bài viết NGƯỜI ĐÀN BÀ Ở BRNO đã xuất hiện đầu tiên vào ngày TÌNH YÊU và NỖI NHỚ.
NGƯỜI ĐÀN BÀ Ở BRNO
Tôi đến Brno vào một ngày hè rất xấu, trên chuyến tàu chạy qua những đồi Moravia. Bên ngoài cửa kính, mưa rơi lộp độp như ai đó đang gõ nhịp buồn vào trái tim tôi. Tôi ngồi gần như bất động, nhìn những giọt nước kéo dài thành vệt, phản bội đôi mắt đỏ hoe mà tôi cố giấu suốt chuyến đi.
Tôi không định đến Brno. Cái tên nghe đã thấy buồn và cụt ngủn, như bị nguyền rủa từ hàng trăm năm trước. Thành phố này quá nhỏ để có tên trong danh sách những nơi phải ghé qua. Nhưng Julia nhắn tin: “Nếu cậu muốn trốn Berlin vài ngày, cứ đến đây. Chìa khóa dưới tấm thảm trước cửa.” Đi trốn và được bỏ rơi – giống như được thất tình thêm một lần nữa. Không vui – nhưng không cần tấm gương nào soi vào để diễn.
Căn hộ nhỏ trên phố Pekařská chỉ còn lại tôi và tiếng mưa đập vào cửa sổ. Tôi ngồi xuống chiếc sofa cũ, chiếc vali còn nguyên cạnh cửa. Bất giác, tôi nghĩ về người đàn ông đã bỏ tôi lại ở Berlin, nghĩ về tin nhắn cuối cùng: “Anh mệt rồi. Chúng ta đừng làm khổ nhau nữa.”
Tôi không khóc. Tôi đã khóc quá nhiều ở Berlin rồi.
Ngoài kia, mưa rơi không ngừng. Tôi lấy áo mưa, khoác lên, và bước ra phố. Tôi cần hít thở không khí của một thành phố xa lạ. Cần cảm giác đôi chân mình đang đi, để tin rằng mình vẫn còn sống.
Brno đón tôi bằng những con phố lát đá trơn trượt, những mái ngói đỏ ướt sũng và ánh đèn vàng hiu hắt hắt xuống quảng trường Zelný trh. Tôi dừng lại, đứng dưới mái hiên của một quán cà phê, nhìn ra những gian hàng đã dọn dẹp, chỉ còn lại mùi thì là, dâu chín, mật ong và oải hương vừa thu hoạch.
Tôi mua một hũ mật ong nhỏ từ người bán cuối cùng còn đứng đó. “Cho ấm người,” ông ta nói, giọng tiếng Anh bập bõm. Tôi mỉm cười, một nụ cười mà tôi không nhận ra mình vẫn còn có thể làm được.
Trời đổ mưa lớn hơn khi tôi đứng trước Old Town Hall. Tôi nhìn lên tháp đồng hồ hơi lệch, lắng nghe tiếng chuông nhà thờ đổ dồn dập- định nhắn tin cho Julia thì một giọng trầm vang bên cạnh:
“Hồi xưa, dân Brno cho chuông đổ sớm một tiếng để đánh lừa quân Thụy Điển. Và từ đó đến giờ, chuông vẫn kêu 11 tiếng thay vì 12.”
Đó là một người đàn ông khoảng bốn mươi, gương mặt góc cạnh, đôi mắt xám nhạt và mái tóc sẫm hơi ướt. Anh mặc áo khoác dài màu than, tay cầm chiếc ô đen như thể nó vốn được mang theo chỉ để che cho một người khác.
“Thành phố biết giả vờ kết thúc trước khi thực sự kết thúc,” anh ta nói thêm, giọng lẫn tiếng mưa rơi lộp độp trên mái hiên. “Giống như câu chuyện của tôi. Hoặc của em và ai đó.”
Tôi bật cười lặng lẽ, kéo cao cổ áo. Mưa như loãng hẳn ra. Rồi đột nhiên nặng hạt. Những giọt nước to như viên sỏi rơi lộp độp trên mái hiên. Tôi nép sâu hơn vào góc tường, tự nhủ sẽ chờ đến khi mưa ngớt để quay về căn hộ.
Chiếc ô đen mở ra trước mặt tôi.
“Trời mưa thế này, đứng đây dễ cảm lạnh lắm.”
Vẫn giọng nói trầm, hơi khàn nhưng ấm áp.
Gì chứ những cuộc làm quen kiểu như này tôi rành lắm. Nhưng trông anh ta có vẻ vô hại. Brno thì hoá ra quá phẳng phiu- đến mức, nếu không có một biến cố nào, sẽ là thành phố chết.
“Có một quán cà phê ngay gần đây. Em muốn trú mưa không?”
Tôi không lắc. Cũng không gật. Tôi chỉ đi theo. Sau này tôi nhớ lại khung cảnh ấy – không chỉ một lần. Chiếc ô đen dưới vòm mưa thẫm màu. Đôi mắt màu tro rực rỡ trên quảng trường Tự do – và nụ cười rất ấm. Chắc thượng đế đã gửi anh đến để tôi nhớ nơi này – bởi trong muôn vàn thành phố đã đặt chân – Brno là nơi mờ nhạt nhất.
Chúng tôi ngồi ở một quán cà phê nhỏ trên phố dốc dẫn lên nhà thờ Petrov. Cửa kính mờ hơi nước, bàn gỗ cũ kỹ, và những bông lavender khô đặt trong lọ nhỏ. Anh chọn bàn gần cửa sổ, kéo ghế cho tôi rồi gọi espresso. Tôi chọn trà gừng.
“Anh là người địa phương?” Tôi hỏi, giọng hơi rụt rè.
“Không. Người Pháp. Khách du lịch như em thôi. Tôi đi qua nhiều thành phố để vẽ.”
“Trông em giống khách du lịch lắm à?”
“Không phải giống – mà là…”
“Là sao?”
“Là em đến không phải để ở lại.”
Anh nói chậm, từng câu mỏng nhẹ hơn cả tiếng mưa rúc rích ngoài kia, miệt mài trên những con đường dốc đá.
Hình như anh- một người hoàn toàn xa lạ- hoặc ít nhất- vẫn còn là người xa lạ cho đến lúc ấy- cũng ngại, không nỡ làm tôi đau.
Tôi im lặng, không biết phải nói gì tiếp. Anh cũng thế- quá nhiều cho một buổi tối mưa nhiều như ở nơi đây.
Rồi anh lấy từ túi áo khoác ra một quyển sổ phác thảo và bút chì. Trong lúc tôi hơ tay trên tách trà nóng, anh bắt đầu vẽ.
“Anh vẽ gì vậy?” Tôi hỏi.
“Em.” Anh nói ngắn và gọn gàng, mắt không rời trang giấy.
Tôi nhìn ra cửa kính đọng hơi nước, để tránh phải đối diện với ánh mắt của anh. Ngoài kia, phố xá ướt nhẹp, những viên đá lát đường lấp loáng ánh đèn như một bức tranh ẩm lạnh. Tôi chợt nhận ra tim mình đập hơi nhanh – một cảm giác lạ lẫm sau những ngày chỉ toàn trống rỗng.
“Cảm ơn em”- Anh nói, giọng trầm.
“Vì sao?”
“Vì đã trao nỗi buồn đó cho một người vừa mới quen.”
Tôi nhìn xuống bức vẽ. Là tôi – mái tóc ngắn, hơi rối, đôi mắt xa xăm nhìn qua cửa kính. Trong tranh, trông tôi buồn hơn cả cảm giác tôi tưởng mình đang mang.
“Em không biết mình buồn thế.” Tôi nói, nụ cười mỏng đi.
“Tôi chỉ vẽ những gì đôi mắt em đang nói.” Anh đáp, đặt bút xuống. “Em đang chạy trốn điều gì đó, phải không?”
Tôi hơi sững người. Không thừa nhận, không giải thích. Thế cũng là quá nhiều cho một chiều mưa cổ quái ở nơi đây. Anh cũng chỉ ngồi đó, để yên một khoảng lặng dễ chịu tràn ra giữa chúng tôi.
Mưa ngớt, anh hỏi:
“Em đã từng lên tháp Old Town Hall chưa?”
“Chưa. Anh thì sao?”
“Lần nào đến Brno tôi cũng lên. Thành phố này nhỏ, nhưng từ trên cao nhìn xuống, nó luôn trông như một bức tranh chưa kịp hoàn thiện.”
Tôi biết, mình vừa có bạn đồng hành, vừa có hướng dẫn viên, vừa có người biết gợi chuyện mà không thúc ép.
Rất tự nhiên, hai người xa lạ đến Brno- một để trốn chạy, một để kiếm tìm và lưu giữ- trở thành nhóm ghép. Dẫu sao thì cũng đỡ phải lang thang cô độc một mình.
Chúng tôi leo lên những bậc cầu thang hẹp, chỉ có âm thanh hai đôi giày vang vọng. Tôi cố giữ khoảng cách nhưng bàn tay anh đôi lần khẽ chạm vào khuỷu tay tôi, đỡ tôi qua những bậc trơn trượt. Một cử chỉ nhẹ, không vồ vập, không lạm dụng hay né tránh -đủ để làm tôi ấm lên dưới lớp áo khoác ẩm nước.
Trên đỉnh tháp, Brno trải ra trước mắt: mái ngói đỏ lốm đốm giữa những kiến trúc dang dở, một sự pha trộn cẩu thả kiểu con nhà giàu được thừa kế di sản nhưng không đủ tầm quản lý nó. Brno đẹp, nhưng vẻ đẹp bị gọt bớt bởi sự nhàn rỗi và ngái ngủ. Nơi đây vừa buồn tẻ, vừa tinh túy, vừa lười nhác, vừa bất cẩn – như người đàn bà thất tình mà vẫn biết mình không phải đồ bỏ.
“Anh đã vẽ Brno chưa?” Tôi hỏi.
“Chưa. Tôi chưa tìm thấy màu nào để vẽ thành phố này.”
“Tại sao?”
“Có lẽ… tôi đang chờ một người cùng nhìn nó.”
Tôi quay đi, cố giấu nụ cười thoáng qua.
Tối, anh đưa tôi đến một quán nhỏ ven phố. Quán treo những chùm đèn vàng, tường gỗ ấm và mùi bánh mì hấp thoang thoảng. Anh gọi cho tôi phần bánh mì hấp với sốt thịt và củ cải ngựa, còn mình chọn rượu vang Moravia.
“Em thường đi du lịch một mình?”
“Không. Đây là lần đầu tiên. Trước đây… luôn có một người đi cùng.”
Anh không hỏi tiếp. Tôi thấy biết ơn sự tử tế đó.
Rượu vang làm má tôi ấm dần. Tôi liếc anh- người đàn ông ấy đang rót thêm rượu, cử chỉ chậm rãi như thể thế giới không bao giờ vội vã. Tôi tự hỏi vì sao mình thấy an toàn đến vậy, bên một người lạ.
Khi rời quán, trời lại đổ mưa. Anh mở ô che cho cả hai. Vai anh sát vai tôi, một khoảng cách nhỏ nhưng đủ để tôi nghe thấy mùi hương gỗ nhè nhẹ trên áo khoác anh. Hay da thịt anh, tôi không biết nữa. Lâu lắm rồi -tôi mới biết cảm giác mình có thể đi bên cạnh ai đó mà vẫn đủ đầy, thậm chí an toàn – mà không cần đến hắn -người đã bỏ rơi tôi ở Berlin: “Em quá lãng mạn. Mà đời thì không cần tiểu thuyết.”
Khuya lắm, chúng tôi dừng lại trước cửa căn hộ của Julia. Mưa rơi vẫn thấp thỏm không dừng. Tôi đứng yên, hai tay đút túi áo, còn anh – vẫn cầm ô, ánh mắt xám nhạt nhìn tôi, như giữ một câu hỏi mà cả hai đều không dám thốt ra.
Anh cúi xuống, ngón tay khẽ gạt sợi tóc ướt dính trên trán tôi. Tôi ngẩng lên, nhận ra đôi môi anh gần đến mức chỉ cần khép mắt lại…
Nhưng tôi lùi lại. Và anh cũng không tiến thêm.
“Ngủ ngon.” Anh nói khẽ, rồi quay đi.
*
Chúng tôi gặp lại nhau ở chợ Zelný trh. Tôi mua một trái táo đỏ, thơm như vừa mới hái. Anh mua một bó oải hương tươi bọc trong tấm giấy báo cũ của một cụ bà- chắc hái ở vườn nhà. Không ai nói về việc hôm qua, như thể cả hai đều đồng ý giữ im lặng về điều chưa kịp xảy ra.
Trưa, sân ga Brno. Anh xách vali hộ tôi, đôi tay anh chắc chắn và chậm rãi.
“Chúng ta sẽ gặp lại chứ?” Anh hỏi, giọng nhỏ như gió.
“Em không chắc. Có những ký họa chả phải… chỉ nên dở dang sao.” Tôi đáp, cố dõi mắt theo đoàn tàu.
“Em… có thể nhận nó không?” Anh chìa ra bó oải hương. Tấm giấy báo đã rách. Mùi oải hương bị vần vò, sực lên.
Tôi cầm. Tay chúng tôi chạm nhẹ. Cảm ơn anh – về tất cả. Tôi nói, rút nhẹ tay lại.
Biết mình sắp khóc, tôi quay đi thật nhanh. Tôi đến đây để chạy trốn – giờ – lại chạy trốn một lần nữa. Chạy trốn khỏi một phiêu lưu mà trái tim quá mệt chưa sẵn sàng để bước vào.
Cửa toa đóng. Tôi nhìn qua ô kính, thấy anh đứng đó, tay đút túi áo, ánh mắt xám nhạt như mưa Brno – xa xăm, không níu kéo, nhưng rất buồn.
*
Provence, mùa hè năm 2015
Cuối cùng, chúng tôi cũng đến Provence bằng xe ô tô, chạy thẳng từ Berlin. Chồng tôi đi tàu đến Paris thăm bà dì và mấy đứa em sang du lịch. Tôi ở lại. Không gì quyến rũ tôi bằng những cánh đồng lavender bạt ngàn nơi đây.
Không. Đúng là tôi không định bước vào gallery ấy. Một ít xà phòng lavender, tinh dầu, và rượu vang, mua ở đâu chả thế, rồi quay về căn hộ thuê trên đồi. Nhưng tôi đã đến.
Cái tên trên tấm biển gỗ trước cửa gallery khiến tim tôi khựng lại:
“Leonas B. – Peintre”
Tôi đứng yên, bàn tay vô thức chạm vào quai túi vải, trái tim gõ những nhịp lạ. Đã bao nhiêu năm rồi? Sáu? Hay bảy? Đủ để tôi tưởng mình quên. Đủ để tôi nhận ra mình chưa từng quên.
Căn phòng ngập ánh sáng chiều. Trên tường treo những bức tranh lớn nhỏ – Vienna mờ sương, Prague rực rỡ, và Brno…
Tôi đứng chết lặng trước một bức tranh.
Là tôi – cô gái ngồi trong quán cà phê Brno, mái tóc ngắn, áo sơ mi đỏ, đôi mắt nhìn ra cửa kính mờ hơi nước. Đâu đó là anh. Hoặc anh ở khắp không gian ấy. Tôi thấy hai má mình nóng bừng.
“Anh biết em sẽ ghé qua.”
Giọng nói quen thuộc vang lên sau lưng. Tôi quay lại. Anh đứng đó, vẫn đôi mắt xám nhạt, nhưng sâu hơn, điềm tĩnh hơn. Mái tóc hơi bạc ở thái dương. Bàn tay vẫn vương chút màu sơn khô cầm ly rượu vang đang uống dở.
“Anh…” Tôi khẽ thốt.
“Lâu rồi.” Anh mỉm cười.
“Phóng viên nhiếp ảnh – bà Mühle. Có phải bà đi lấy tin cho tờ Bưu điện buổi sáng không?”
Anh biết nhiều hơn tôi tưởng. Tôi bật cười. Chìa tay ra. Anh chuyển ly vang sang tay trái, để nắm lấy tay tôi. Không phải là bắt – mà nắm lấy. Tôi không rút lại như đêm mưa Brno ấy. Có lẽ bởi bây giờ – tôi không cần phải trốn chạy.
Chúng tôi ngồi ở quán nhỏ ven phố, bàn gỗ cũ, những chùm nho treo lơ lửng trên giàn. Tôi cầm ly rượu, cố giữ cho tay không run.
“Anh đã từng nhắn tin cho em.” Anh nói.
“Em biết.” Tôi đáp, giọng nhỏ. “Nhưng lúc đó… em nghĩ tốt hơn là không trả lời.”
“Anh hiểu.” Anh không trách, chỉ rót thêm rượu.
Chúng tôi nhắc đến Brno -về đêm mưa, về bánh mì hấp, về bức ký họa mà tôi không bao giờ nghĩ anh sẽ hoàn thiện.
Chúng tôi nói không nhiều. Nhưng có rất nhiều khoảng lặng. Bỗng anh bảo:
“Anh biết trước sau gì em cũng đến đây.”
“Vì sao?”
“Có ai thích lavender mà không đến Provence chứ?”
“Anh đừng nói là anh ở lại đây vì em chứ.”
“Anh sẽ không nói thế.
Dù phim ngôn tình họ vẫn làm thế. Nhưng anh mua quả đồi này, và mở phòng tranh. Ông sếp em không vô tình muốn có bài về phòng tranh ở tận miền Nam nước Pháp đâu.”
Một phút im lặng.
“Bây giờ… em có số điện thoại của anh.” Anh nói, ánh mắt dịu dàng.
“Và anh còn biết em có cả thẻ nhà báo nữa. Anh biết cách thu xếp.” Tôi đáp, vẻ trách móc.
Chúng tôi nhìn nhau thật lâu. Có hàng trăm lời nói muốn thoát ra, nhưng không lời nào thành tiếng.
“Trong khoảng thời gian ấy…” anh nói, giọng chậm rãi, mắt nhìn ra con phố nhỏ nơi mưa đang rơi nhẹ, “anh đã kịp ly dị… rồi lại lấy.”
Tôi bật cười, tiếng cười vang lên như tiếng ly rượu chạm nhau.
“Anh vẫn như thế. Dễ yêu và dễ rời đi.”
“Không hẳn.” Anh quay sang tôi, ánh mắt xám nhạt hơi nheo lại. “Anh đã thử… ổn định. Nhưng không ai thực sự hiểu những chuyến đi của anh.”
Tôi nhấp một ngụm rượu.
“Còn em?” Anh hỏi.
“Chưa ly dị.” Tôi nói.
“Em luôn gặp anh khi đang thất tình, có để ý không?”
Cả hai cùng cười phá lên. Tiếng cười ấy vang vọng trong quán nhỏ, lẫn với mùi oải hương treo trên giàn gỗ. Chồng tôi đang ở Paris – giờ này, bên những người họ hàng luôn quan trọng hơn tôi rất nhiều. Còn tôi ở đây với một phần ký ức tái hiện về.
Rồi anh đột ngột nghiêng người về phía tôi.
“Anh đã rất nhớ em…”
Môi anh chạm vào môi tôi. Một nụ hôn lạnh- lạnh như cơn mưa Provence ngoài kia, như đôi bàn tay đã lâu không chạm nhau, như khoảng cách mười năm mà chúng tôi đã bỏ lỡ.
Nhưng ẩn trong cái lạnh ấy là mùi oải hương dịu nhẹ, mùi hương gỗ trên vai áo anh, vị vang chát trên đầu lưỡi, và vị ngọt đắng của Brno – đêm mưa mười năm trước.
Chúng tôi hôn nhau lâu đến mức tôi thấy mình như đang chìm xuống một lớp ký ức sâu, nơi mọi thứ đều ướt át, mờ nhòe nhưng thật ấm áp.
Khi buông ra, anh khẽ thở, trán chạm trán tôi.
“Lẽ ra…” anh bắt đầu, rồi dừng lại.
“Lẽ ra?” Tôi hỏi.
“Lẽ ra anh không nên để em đi đêm ấy.”
“Nhưng anh đã để.” Tôi đáp, mắt nhìn sâu vào đôi mắt xám nhạt. “Và em cũng không dừng lại.”
Bên ngoài, mưa bắt đầu rơi nhẹ. Một đôi tình nhân người Pháp đi ngang qua, tay nắm tay, chia nhau chiếc ô nhỏ xíu. Tôi nhìn họ, rồi chợt thấy tay mình nằm gọn trong tay anh – ấm áp nhưng lạ lẫm. Tôi để yên, không lấy lại.
“Chúng ta rồi lại sẽ xa nhau.” Tôi thì thầm.
“Em…” Anh nói, giọng trầm. “Nhưng ít nhất… lần này, anh có số điện thoại của em.”
Tôi cười, giọt nước mắt không biết từ đâu rơi xuống.
“Và cả ông sếp của em nữa. Anh biết rõ những gì anh muốn.” Tôi khẽ nói, làm ra vẻ đay nghiến một chút.
“Em sẽ liên lạc với anh chứ?”
Tôi không trả lời, chỉ siết nhẹ tay anh.
Anh đưa tôi về đến cửa khách sạn. Không có lời hứa hẹn, không có ánh mắt van nài. Chỉ có đôi tay anh – chắc chắn và ấm – khẽ giữ tay tôi lâu hơn một chút trước khi buông.
“Anh sẽ gọi.”
“Có thể em sẽ trả lời.” Tôi mỉm cười, mắt cay xè.
Anh đứng đó, dưới mái hiên, khi tôi bước vào sảnh. Tôi không ngoảnh lại, nhưng tôi biết – trên con phố nhỏ của Provence, người đàn ông ấy vẫn dõi theo tôi, như đã từng đứng dưới mưa Brno nhiều năm trước.
*
Berlin, mùa Thu 2025
Thu năm nay đến sớm, vặt trơ lá rải trên đại lộ 17 Juni. Tôi đi chậm trên con đường lát đá, tay nhét sâu trong túi áo khoác. Đôi giày boots kêu cồm cộp trên nền gạch lạnh.
Chợ đồ cũ chuyên nghệ thuật trải dài suốt đại lộ. Những gian hàng bày đủ thứ: sách cũ, đồng hồ hỏng, gương mẻ cạnh, và vài bức tranh đóng bụi. Tôi không định mua gì. Nhưng rồi mắt tôi dừng lại ở một bức tranh.
Cô gái ngồi trong quán cà phê, tóc ngắn, áo sơ mi đỏ, đôi mắt nhìn qua cửa sổ mờ hơi nước như nhấn cả thành phố vào nỗi buồn không đáy. Phía sau là quảng trường Brno mờ trong cơn mưa.
Tôi nhận ra mình ngay lập tức.
“Cô thích bức tranh này à?”
Tiếng một chàng trai trẻ vang lên phía sau quầy. Cậu mặc áo len xám, tóc rối và đôi mắt hơi trũng sâu.
“Tôi… từng ngồi như thế. Ở Brno.” Tôi nói, giọng lạc đi.
“Bố cháu vẽ đấy.” Cậu đáp, giọng không giấu được tự hào- nhấc bức tranh lên, phủi nhẹ bụi. “Cô biết không, ổng vừa cho, vừa bán gần hết tranh để sống… trừ bức này.”
Tôi đứng lặng.
“Trừ bức này, tại sao?”
“Ông bảo đây là bức tranh duy nhất ông không nỡ bán. Lúc cháu sang Berlin học hội hoạ, ông bảo cháu cầm đi, tặng lại cho cô người mẫu nếu tìm được.”
“Vậy sao cậu không tìm?”
“Cô biết đấy, cháu thậm chí còn quên đã từng mang đi một bức tranh.”
“Vì sao… giờ cậu bán nó?”
“Cháu sắp rời Berlin, không muốn mang theo quá nhiều thứ.”
Tôi nhìn bức tranh lần nữa. Một phần tôi muốn từ chối- vì tôi không chắc mình đủ can đảm để mang về nhà bức tranh ấy, với những mùi hương của Brno, Provence, và của chính anh. Nhưng phần khác… sâu hơn, yếu đuối hơn, chỉ muốn ôm nó thật chặt, như ôm lại những năm tháng đã lỡ.
“Tôi muốn mua nó.”
“Cô lấy đi. Miễn phí. Bố cháu sẽ vui.” Cậu nói, mắt nhìn thẳng vào tôi.
“Bảo với ông ấy- “Cô gái ở Brno đã tìm lại được nó”.” Tôi không khóc. Nhưng nước mắt cứ ứa ra.
Cậu thanh niên đã nhận ra tôi. Có rất nhiều biểu cảm trên gương mặt lãng tử ấy- tôi nhận ra gương mặt anh- nhưng anh của thời chúng tôi chưa hề quen biết.
Cậu nói,đầu hơi cúi, rất khẽ:
“Bố cháu mất rồi… Cháu xin lỗi.”
Tôi thấy đôi tay mình run run khi đón lấy bức tranh. Nó nặng hơn tôi tưởng – nặng như cả một quãng đời.
*
Tôi treo bức tranh trên tường phòng khách. Ngồi đối diện, ly vang trên tay, tôi nhìn cô gái trong tranh. Đôi mắt ấy vẫn buồn như hôm tôi rời Brno. Và người đàn ông ngoài khung cửa vẫn đứng đâu đó – mãi mãi chỉ là một bóng hình.
*
Tối đó, chồng tôi về nhà muộn. Tôi vẫn ngồi, với ly vang uống dở. Anh nhìn lên tường và thấy bức tranh “Người đàn bà ở Brno.”
“Thế quái nào mà cô lại vớ được nó vậy?”
“Anh nói thế nghĩa là gì?”
“Lẽ ra cô nên để lại mọi thứ ở Brno”
“Anh biết là tôi không thể”
“Cái thằng hoạ sĩ người Pháp chết tiệt ấy chả phải đã chết rồi à? Chả phải tôi đã gửi trả lão bức tranh rồi à?”
Anh ta chợt im bặt.
Tôi biết, có những ánh mắt có thể không giết người, nhưng giết chết một mối quan hệ đã không còn gì chắc chắn. Ánh mắt tôi lúc đó hẳn nói nên nhiều điều. Hoặc quá nhiều, hoặc chẳng còn gì để nói.
Thủ tục ly dị tiến hành ngay sau đó.
*
Sau này tôi còn đến Brno vài lần nữa. Lần nào, trời cũng mưa.
Brno càng ngày càng cũ đi, nhưng không bao giờ hư hỏng. Nó chỉ giống chính nó hơn mà thôi.
Nơi người ta đến không phải để trốn chạy, mà để tìm về.
Sống một lần –
đủ cho trăm năm. Dù trăm năm, cũng chỉ dài như một hơi thở.
–
Phần 2 KÝ ỨC
-//-
Gửi em- cô gái Brno trong mưa của anh,
Anh không biết bắt đầu từ đâu, chỉ biết rằng mười năm trôi qua, mọi điều trong anh đều dẫn về em – về cái đêm mưa ở Brno, khi anh đứng bên mái hiên với chiếc ô đen và đôi mắt em buồn đến mức có thể làm nứt cả những viên đá lát đường.
Anh đã từng nghĩ, nếu đêm ấy anh đưa tay ra giữ em lại, có lẽ câu chuyện của chúng ta đã khác. Nhưng anh không làm. Không phải vì anh không muốn, mà vì anh không thể. Em không biết, phải không, rằng lúc đó anh cũng đang bị trói trong một cuộc hôn nhân đang mục rữa? Một người phụ nữ ở Paris, một đứa trẻ mới tám tuổi, và một lời hứa đã cạn ý nghĩa. Anh đã trốn chạy đến Brno để tìm lại chính mình, và lại gặp em – một người cũng đang trốn chạy khỏi Berlin, khỏi một tình yêu khác đã làm em hoảng loạn.
Có lẽ vì thế mà chúng ta nhận ra nhau ngay lập tức.
Hai kẻ thất bại về tình cảm, hai người lạc lối, gặp nhau trong một thành phố mà mưa không bao giờ dứt, như thể Brno muốn giữ chúng ta lại bằng những giọt nước lạnh buốt ấy.
Anh vẫn nhớ từng cử chỉ nhỏ nhặt của em: cách em kéo cao cổ áo khi gió lùa, cách em nắm chặt tách trà gừng để tay bớt run, cách em cố tránh nhìn vào mắt anh khi anh phác họa em trên cuốn sổ cũ. Cái góc nghiêng của gương mặt em bên cửa sổ hắt ánh sáng ngọn đèn trần, đôi mắt nhìn xuyên qua làn mưa chỉ để nắm giữ một điều không bao giờ với tới- đã ám ảnh anh ngay cả khi anh tưởng có thể quên hết mọi điều.
Em biết không? Anh đã vẽ cả trăm bức ký họa, từ những con phố Vienna đến quảng trường Prague, nhưng chỉ duy nhất bức vẽ em – anh không thể hoàn thiện.
Đêm ấy, khi em trở về căn hộ Julia, anh đi bộ dưới mưa, đứng bên kia đường, nhìn ánh đèn hắt ra từ cửa sổ nơi em ngồi, thấy dáng em như một pho tượng buồn bã, và tự hỏi:
“Nếu mình bước lên cầu thang, gõ cửa, liệu cô ấy sẽ để mình vào?”
Anh đứng đó, lặng lẽ như một kẻ hèn nhát.
Anh sợ chính tình yêu này. Sợ rằng nếu bước vào, anh sẽ kéo em vào một mớ bòng bong tồi tệ hơn cả Berlin của em hay Paris của anh.
Đêm em rời Brno, anh còn đứng mãi ở sân ga. Em không thấy anh, nhưng anh thấy em – chiếc vali màu xanh nhạt, mái tóc ngắn ẩm nước mưa, đôi mắt không còn đỏ nhưng vẫn đẫm nỗi buồn.
Anh để em đi vì biết trái tim em chưa sẵn sàng. Anh đã tưởng cuộc chia tay ấy cũng như mọi chia ly khác trong đời người.
Và thế là em đi. Mang theo nỗi buồn của chính em, nhưng để lại trong anh một khoảng trống sâu hoắm mà không ai lấp đầy được.
Anh quay về Paris, cố gắng làm một người cha tốt, một người chồng tử tế, nhưng anh thất bại cả hai. Anh vẫn nhìn Paris qua màu xám nhạt của Brno, vẫn tìm kiếm em trong những giọt mưa rơi trên cửa sổ phòng tranh nơi anh làm việc, vẫn vẽ em -mái tóc ngắn, rối, đôi mắt nhìn xa xăm – trên mọi tấm canvas.
Để rồi một ngày, anh quyết định rời Paris. Anh đi về phía Nam, nơi có những cánh đồng oải hương bạt ngàn của Provence.
Anh mua nốt phần còn lại của quả đồi, phía trên thị trấn L’Isle-sur-la-Sorgue, mở phòng tranh – không phải để bán tranh, mà để chờ một người.
Em sẽ bảo anh điên. Nhưng ở đây người ta gọi anh là quý ông Paris. Rảnh, chỉ vẽ , trồng oải hương và nuôi ong. Thằng nông dân nuôi sống ông hoạ sĩ- dù cả hai đều gàn dở theo đúng cách con trai anh nói về cha nó.
Em có bao giờ tự hỏi tại sao anh lại chọn Provence không?
Không phải vì anh yêu oải hương. Anh từng dị ứng với phấn hoa. Không phải vì ánh nắng miền Nam nước Pháp. Anh từng chê nó quá gắt, quá ngột ngạt. Anh chọn Provence, chỉ vì anh tin, một ngày nào đó, em sẽ ghé qua.
Rời Paris, anh đã mang theo tất cả tranh vẽ em – những bức ký họa không tên, nét phác run rẩy mà anh không bao giờ dám trưng bày. Từ ô cửa sổ phòng tranh, anh có thể nhìn thấy con đường mòn nơi mỗi sáng em sẽ đi bộ ngang qua – nếu em ở đây.
Anh biết, đó là một ảo tưởng điên rồ, một niềm hy vọng mỏng manh như làn sương Provence mỗi sớm- sẽ tan ngay khi ánh nắng mặt trời đầu tiên chiếu xuống. Nhưng một người đàn ông đã để lạc mất em ở Brno còn gì để mất- còn gì ngoài hy vọng?
Em. Người đàn bà Brno của anh,
Có thể anh viết hơi lộn xộn, về thời gian, và cảm xúc. Nhưng anh phải viết ra tất cả những gì có thể vì anh sợ- một lúc nào đó, anh không còn nhớ tại sao anh lại viết bức thư này.
Quả đồi là một phần thừa kế của gia tộc, thứ tài sản mà anh từng rẻ rúng khi còn trẻ. Đây là một mảnh Provence đầy nắng, nơi gia tộc Beauregard từng nghỉ hè qua nhiều thế hệ.
Ngày ấy anh tin rằng con người phải tự đứng trên đôi chân của mình, phải chinh phục thế giới bằng những bức tranh, chứ không phải dựa vào một mảnh đất mà tổ tiên để lại để trốn chạy khỏi những sai lầm của mình.
Nhưng rồi, một buổi sáng… khi mọi tin nhắn, mọi bức thư anh gửi đi đều không có hồi âm… anh nhận ra: thế giới rộng lớn đến mấy cũng không cứu nổi trái tim này khỏi cô độc. Và thế là anh trở về.
Người dân Provence gọi Beauregard là “ngọn đồi biết giữ bí mật”. Đúng vậy. Từ đỉnh đồi này, người ta có thể nhìn thấy cả trăm mái nhà lấp lánh trong nắng, nghe thấy tiếng chuông nhà thờ buổi sớm và mùi oải hương thoảng qua từng cơn gió. Nhưng cũng từ đây, người ta có thể giấu cả cuộc đời mình vào những khoảng lặng tím biếc, không cần ai chứng kiến- trừ cái chết.
Anh bắt đầu cải tạo ngôi nhà cũ. Mở lại phòng tranh dưới mái vòm đá xám. Treo tấm biển gỗ khắc chữ “Leonas B. -Peintre” trước cửa, như một dấu hiệu để nếu một ngày em lang thang qua đây, em sẽ biết rằng anh vẫn còn sống. Vẫn còn vẽ. Vẫn chở đợi bởi anh nhận ra- bản thân chờ đợi đã là ý nghĩa.
Anh biết em lấy chồng, làm việc cho Bưu điện Buổi Sáng ở Berlin. Một phần nào đó trong anh ngu ngốc đến mức tin rằng: nếu gửi thư đến văn phòng đó, có lẽ em sẽ đọc.
Anh đã viết. Viết đến mòn cả ngón tay. Nhưng tất cả phong bì đều trở về, dán nhãn “Người nhận từ chối”.
Một lần duy nhất, anh nhận lại một bức thư từ em. Bên trong không có lời nào. Chỉ có một cành oải hương ép khô. Mùi hương nhạt nhòa đến mức khi anh chạm vào, những bông hoa vụn ra như bụi tím.
Anh hiểu. Em đang nói:
“Đừng tìm em nữa.”
Anh đã thử dừng. Nhưng mỗi buổi chiều, khi ánh nắng rót xuống những cánh đồng lavender như mật ong, anh lại thấy em hiện ra – bước đi giữa những luống hoa, mái tóc ngắn rối tung trong gió. Em không bao giờ ngoảnh lại, nhưng chỉ cần bóng dáng ấy thôi, tim anh đã quặn thắt.
Anh mua Beauregard không phải vì yêu đất đai. Anh mua nó vì anh muốn… nếu một ngày em mệt mỏi, nếu một ngày em tha thứ, nếu một ngày em đủ can đảm để quay lại, thì nơi này sẽ là chỗ trú ẩn của em. Và của anh. Khỏi mọi bão giông. Nơi không ai chê em mơ mộng vì cuộc đời không cần tiểu thuyết. Nơi em có thể lấy mật từ trong đõ, hái Lavender trước nhà, và chạy chân trần trên bạt ngàn đất cát. Em không cần đến toà soạn, nhưng anh cần vẽ- một người thôi- như thế cũng đủ bận rộn suốt cuộc đời…
Anh tưởng tượng cảnh em bước vào gallery, tay còn cầm chiếc ô đen. Em sẽ nhìn thấy những bức tranh anh vẽ về Brno – từng viên đá lát đường ướt sũng, từng ngọn đèn đường nhòe đi trong mưa, từng bóng dáng người đàn bà đứng một mình giữa quảng trường lạnh giá. Em sẽ hỏi:
“Sao anh vẫn vẽ về nơi đó?”
Và anh sẽ trả lời:
“Vì ở đó, anh đã yêu.”
Nhưng em không đến. Và Provence, thay vì trở thành thiên đường, đã trở thành nhà tù ngọt ngào nhất của anh.
Anh bắt đầu kết thân với ông Pierre – chủ tờ Bưu Điện. Anh không bao giờ nhờ ông gửi lời, nhưng anh đủ mánh khóe để ông nhắc đến tên em. Ông ấy không khó để nhận ra- nhưng ông ấy đồng loã- như hai người đàn ông cùng có chung bí mật về một người đàn bà. Mỗi lần tên em được nhắc tới, anh lại lặng người. Một tiếng gọi nhỏ thôi cũng đủ làm vết thương tưởng lành lại bật máu.
Em thân yêu, cô bé Brno buồn bã của anh,
Một gã quý tộc đang chơi trò vẽ vời giữa hai bờ yêu – trách nhiệm. Rốt cuộc anh đã làm đau hết thảy: em, vợ anh, con trai anh, và chính bản thân anh.
Anh rời Brno và tự nhủ: “Ta sẽ quên.” Nhưng anh không thể . Và – anh đã biến mình thành kẻ sống dựa vào ký ức: từng giọt mưa Brno, từng vệt hơi nước trên cửa kính, từng lần em khẽ nghiêng đầu, đôi mắt nhìn ra phố… Tất cả trở thành tranh, thành nét vẽ run rẩy, thành những đêm Provence anh không ngủ, lặng lẽ tô lại gương mặt em.
Anh giữ nó lại như giữ một phần của em. Vì anh biết, một ngày nào đó, cô phóng viên của tờ Bưu điện Buổi sáng sẽ đến Provence. Em yêu oải hương mà. Và đúng, em đã đến.
Con trai anh nói rằng em đã đến đây- nhưng anh lại không nhớ chút gì về chuyện đó. Mọi thứ chỉ bắt đầu , kết thúc và xoay quanh Brno. Các bác sĩ gọi nó là một dạng suy thoái trí nhớ chọn lọc – một căn bệnh hiếm gặp đến mức chưa có tên chính thức. Anh gọi nó là Bệnh của Người Đang Yêu.
Anh nhớ Brno, nhớ em… từng chi tiết. Nhưng anh không nhớ nổi bữa tối hôm qua hay cuộc hẹn với bác sĩ sáng nay. Anh biết thời gian của mình không còn nhiều. Và anh gửi bức tranh này đến cho em. Nếu em còn chưa quên chàng trai miền nam nước Pháp của em. Nhưng bức tranh đã bị trả lại theo đường bưu điện. Anh cám ơn vì người ta đã không phá huỷ nó.
Anh để lại bức tranh “Người đàn bà ở Brno” cho con trai – nhờ nó tìm em, trao tận tay em. “Hãy nói với cô ấy rằng, dù không giữ được cô ở lại, bố cháu vẫn vẽ cô suốt một đời.”
Anh xin lỗi… vì anh không còn đủ thời gian để gặp lại em.
Và cũng không chắc, nếu còn sống đến phút ấy, anh còn có thể nhận ra em. Virut đã gặm nhấm óc não anh mỗi ngày, không cách gì ngăn lại được. Nhưng điều đó không đáng sợ bằng anh nhìn em mà không còn nhận ra em là ai.
Nhưng em hãy tin rằng, em là người đàn bà duy nhất khiến anh thấy cuộc đời đáng để sống đến tận giây phút cuối cùng.
Nếu em đang đọc lá thư này, nghĩa là anh đã nằm đâu đó dưới lớp đất Provence.
Có thể em sẽ khóc thật lâu trước khi tự tha thứ cho mình. Nhưng anh thà ra đi trong im lặng- hơn là để em làm bà góa phụ Beauregard. Anh sẽ không chịu nổi điều đó đâu.
Hãy nhìn bức tranh – và mỉm cười. Vì ít nhất, anh đã yêu em theo cách duy nhất anh có thể: tận cùng và lặng lẽ.
Brno. Provence. Berlin. Dù ở đâu, anh cũng luôn tìm thấy em.
Chúc em một đời đủ dài để tha thứ cho anh, và đủ ngắn để không phải hối hận.
Leonas
–
Đoạn kết.
Nhiều năm sau, Provence mở một triển lãm tranh để tưởng nhớ người đã hiến toàn bộ tài sản bao gồm ngọn đồi, trại nuôi ong, phòng tranh cùng tất cả hiện vật trong đó. Nàng nhận được lá thư mời ký tên “Leonas- con trai”.
Tôi sẽ đi- nàng bảo ông chủ báo. “Với tư cách cá nhân”. Ông nhìn nàng: Leonas sẽ rất vui. Nhưng đừng ở lại lâu quá. Chúng tôi sẽ rất nhớ cô!
Triển lãm không đông người nhưng người tham quan không hề giảm đi theo thời gian. Người ta kể, có một thiếu phụ tóc ngắn, mặt nhìn nghiêng như pho tượng, vì buồn nên rất khó quên. Bà mang theo bức hoạ, từ chối bán với mọi đề nghị.
Tờ Bưu điện Buổi sáng khuyết một chỗ- nghe nói- đến bây giờ vẫn không tìm được ai thay thế.
–
Phần cuối: NGƯỜI ĐÀN BÀ CỦA CHA TÔI
-/-
Provence 2015
Tôi gặp người đàn bà ấy lần đầu tiên vào một buổi chiều Provence nhạt nắng.
Gallery của cha hôm ấy đông hơn mọi khi, có vài khách Pháp và khách du lịch Đức tản bộ qua. Tôi đang ngồi trên cầu thang gỗ, nghịch vài phác thảo, thì bà bước vào – mỏng nhẹ như một cơn gió.
Bà mặc váy linen màu kem, chân đi đôi giầy bệt khiến bà trông bé nhỏ trong phòng tranh toàn người cao lớn. Khi bà tháo chiếc khăn quàng mỏng, lộ ra mái tóc ngắn. Rồi bà cứ đắm mình trong phòng, sờ tay vào nắm đấm cửa, quanh quẩn ở bậc cầu thang, xem những thứ không liên quan đến tranh. Bà còn khẽ vuốt ve những nhánh oải hương cắm trong bình, như thể chúng nạm bằng vàng.
Khi bà dừng lại trước bức “Người đàn bà ở Brno”- một liên tưởng nào đấy khiến tôi biết đó chính là NGƯỜI ĐÀN BÀ CỦA CHA TÔI.
Bà đây sao? Người khiến cả đời cha cứ loay hoay với hạnh phúc của mình. Khiến ông bỏ cả chân giảng dạy ở ENSBA Paris- về làm lão nông trên ngọn đồi trồng toàn thứ oải hương không ăn được, nuôi đám ong chỉ biết bay vò vò điếc hết cả tai.
Tôi còn nhớ- lúc đó mới 8 tuổi- sau chuyến đi xa về, hình như là đến một thành phố nhỏ ở Đông Âu với những bức tranh phố cổ của ông- ba mẹ đã cãi nhau một trận rất to. Mẹ la hét, như mọi khi. Tôi ngồi co ro trong góc phòng. Giọng cha nhỏ, gần như thì thầm: “em tha lỗi. Tình yêu là thứ không thể cố là được”. Mẹ vẫn la hét không dừng. Rồi xô đẩy. Rồi từ đó, mẹ uống và hút thuốc liên miên. Cho đến khi cha ra đi, không mang theo gì ngoài tôi và những bức tranh.
Tôi không thích những bức tranh ấy. Cả đời ông, tôi thấy- hầu như chỉ vẽ chúng. Nó khiến trái tim ông không còn chỗ cho ai khác. Cho mẹ. Và cả cho tôi.
Nhưng tôi thấy cha không cố để có bà- ngược lại- cố để quên. Ông lấy vợ- người đó cũng không phải bà. Tôi không hiểu, yêu một người mà không dám giành lấy cơ hội- rốt cuộc- để làm gì?
Người vợ này của ông còn rất trẻ và đẹp. Chị mê ông như thiếu nữ mê một quý ông. Nhưng ông ly dị gần như ngay sau đó. Người vũ công này tìm cách gỡ bỏ tranh của ông- chị ấy cũng ghen như mẹ tôi. Trước khi kịp hiểu mình sai ở đâu, chúng tôi lại dọn nhà một lần nữa. Lần này là về Provence.
Ban ngày, ông lao động như một nông dân thực thụ. Oải hương cần thu hoạch và đưa đi ép dầu- ong cần thu mật- đất cần thêm phân. Đêm, ông chong đèn vẽ tranh. Chả cần nhìn cũng biết ông vẽ gì.
“Làm hoạ sĩ mà chỉ vẽ mãi một người- ba không chán sao?”
“Ba vẽ không phải để nhớ- mà vẽ để quên”
“Con sẽ không bao giờ như ba.”
“Ba đã cố làm một người cha tốt.”
“Cái ba làm tốt nhất là một người thất tình.”
Tôi ném thẳng vào mặt ông. Và tim thắt lại khi thấy ông đau. Mặt ông trong phút chốc nhàu hẳn đi.
Đó là lần đầu cha con tôi tranh luận về người đàn bà ấy.
Sau này, khi ba tôi đã mất đi trí nhớ, tôi nhận ra một điều: điều tốt nhất mà ba làm được trong đời là yêu say đắm mà không trở thành người phản bội.
*
Cha tôi bước tới, ánh mắt xám nhạt như bừng sáng – thứ ánh sáng mà tôi chưa từng thấy kể từ khi chúng tôi rời đi.
“Anh biết em sẽ ghé qua.”
Giọng ông trầm và hơi khàn, mang theo chút ngạc nhiên, nhưng nhẹ nhõm, như thể một người sắp chết đuối cuối cùng cũng chạm chân được vào đất liền.
Bà quay lại. Họ nhìn nhau, như trong khán phòng không còn ai, ngoài họ. Cha tôi chuyển ly vang sang tay trái để nắm lấy bàn tay người đàn bà của ông đang chìa ra. Như nắm một cánh hoa, như bám vào mỏ neo neo cuộc đời ông lại. Bà không thu tay lại. Họ nhìn nhau, cười, nói những điều mà tôi biết chính họ cũng chẳng hiểu gì. Cha tôi bỗng chốc thành người khác hẳn. Tôi không nhớ có khi nào ông cười như vậy.
Họ kéo nhau đi. Bỏ lại phòng tranh đầy nắng và cả những bức tranh mà ông chưa bao giờ cho phép ai sờ vào mà không có sự để mắt của ông.
Họ ngồi ở quán nhỏ dưới chân đồi. Không ôm không sát má kề vai- nhưng không gì chen vào giữa họ. Những giàn nho Provence đung đưa trong cơn mưa nhè nhẹ, và rồi, khi cha tôi hôn bà, tôi khẽ quay đi, cay cay nơi khoé mắt. Tôi ghét điều đó- giống như sự phản bội mẹ tôi- dù ông có quyền làm điều đó.
Sau này, khi cha tôi đã mất hết trí nhớ về Provence, tôi đã kể lại cho ông rất nhiều lần chi tiết này. Lúc ông ghé đầu để hôn bà, lúc ông nắm tay bà, từng ngón, từng ngón một để hôn… Ông cứ vòi vĩnh để được nghe lại mãi. Và ông bắt đầu ghi nhật ký, để những mẩu ký ức không biến mất trước khi bị xoá sạch.
Tối đó, mẹ tôi gọi điện. “Mẹ đừng hút thuốc. Cũng đừng uống rượu nữa.” Tôi bảo.
“Tại sao?”
“Bà ấy không làm thế”
“Ai?”
“Người đàn bà ở Brno.”
Đầu dây bên kia im lặng.
“Mẹ…”
“Mẹ ổn.”
“Bà ấy đang ở đây.”
Im lặng.
“Mẹ à… ông ấy là cha con. Thế là đủ. Ông ấy không làm gì sai cả. Mẹ đừng uống rượu nữa. Chả nhẽ mẹ không biết ông ấy thích gì sao?”
“Thích gì?”
“Nuôi ong. Trồng hoa. Vẽ. Không phải tiệc tùng và hoan lạc.”
Tối đó, cha về muộn hơn thường lệ. Tôi nghe tiếng động cơ xe từ xa và bước ra ban công. Đèn xe quét qua con đường sỏi dẫn lên đồi. Cha bước xuống, dáng cao gầy trong bóng tối, áo khoác vắt hờ trên vai, mùi sơn dầu và mùi rượu theo gió len vào phòng tôi.
Tôi giả vờ cúi đầu đọc sách khi cha mở cửa. Ông đi ngang qua hành lang, bước chân nhẹ hơn bình thường. Tôi không biết ông có nhận ra tôi còn thức hay không. Chỉ biết, khi tôi hé mắt nhìn, tôi thấy ông đứng lặng trước giá vẽ, tay chạm khẽ vào một bức tranh mới còn dang dở.
Rồi cha khẽ thở dài – một tiếng thở dài rất khẽ nhưng nghe như chạm vào cả căn nhà im lặng.
Ông không ngủ lại chỗ bà. Ông không mang về một mùi hương lạ trên người. Chỉ có oải hương Provence và chút gì đó của một người đàn ông vừa đi qua một buổi chiều đẹp nhất đời mình -nhưng không cần sở hữu nó để giữ lại.
Năm đó tôi 18 tuổi, tôi chưa đủ kinh nghiệm để hiểu ra: có những tình yêu không phải để chiếm đoạt, không cần lời hứa, không cần qua đêm bên nhau. Chỉ cần thấy lại nhau, một lần, đủ cho một đời.
Tôi không biết đêm ấy cha có ngủ không. Nhưng tôi biết, sau buổi chiều Provence ấy, ông dường như đã mãn nguyện.
Khi tôi quyết định ghi danh học UdK Berlin, cha tôi rất xúc động. Không Brno thì Berlin- những cái tên luôn làm ông phấn kích. Ngày tôi rời Pvovence, ông giao cho tôi bức tranh vẽ người đàn bà của ông. “Con hãy tìm và trao tận tay cô ấy”.
Tôi nhìn ông. Tóc đã bạc. Và đã quên rất nhiều thứ. Lẽ ra tôi không nên đi. Nhưng lúc này chị vũ công đã quay về ở cùng ông. Tôi chẳng còn lý do gì để ở lại. Tranh- tôi đã giữ. Và cha tôi có người bên cạnh.
Berlin là thành phố thú vị và sôi động. Nó không ưỡn ngực như Paris và không đắm mình như Provence. Tôi có quá nhiều thứ cần làm với tuổi trẻ của mình- hơn là chuyển giao một bức tranh.
Tôi đã không tìm bà dù tôi biết bà làm ở đâu. Các bài báo ký tên bà xuất hiện khá đều.
Bà là cây viết chính luận xuất sắc và còn là tác giả của mấy cuốn sách nữa. Người ta quá bận rộn, thành đạt và già đi- tôi tự cho mình cái quyền can thiệp để quá khứ ấy ngủ yên.
*
Provence 2028
Bốn năm sau khi cha tôi mất, di sản của ông để lại cho thành phố là phòng tranh, ngọn đồi trồng toàn oải hương- và trại ong mà tôi rất ghét. Tôi sẽ chỉ được phép quản lý nếu tôi trở về thay ông cai quản nó. Nhưng tôi đã khước từ. Tôi yêu vài cô, lên giường, và ngủ ngay cả khi chả có gì gắn bó.
Một lần tôi gọi điện cho cha tôi. Ông hỏi: “ổn chứ, chàng trai? ”
“Không ổn lắm.”
“Tại sao?”
“Con sắp làm cha nhưng con không hề thích cô ta. Thậm chí ghét.”
“Con hãy nói với cô ấy điều đó. Hãy chuẩn bị kiếm tiền để chu cấp cho đứa trẻ. Nhưng đừng kết hôn nếu con không yêu.”
“Đó là cách mà con ra đời à?”
“Cách mẹ con trói một người đàn ông”
“Nhưng con không dành cả cuộc đời để vẽ một người đàn bà mà không được làm tình đâu.”
Tôi thầm cám ơn ông. Tôi làm cha, nhưng không làm một người tình tồi tệ và một người chồng miễn cưỡng. Nhưng tôi không còn cơ hội đến với cô gái mà tôi rất thích nữa. Hay ít nhất là tôi không dám nữa.
•
Bà đến phòng tranh lần thứ hai, theo thư mời của tôi- mang theo bức vẽ chính mình mà cha tôi đã tặng lại cho bà. Tranh ông không còn nhiều- nó đã bị bán, bị cho, bị thất lạc khá nhiều. Nhưng tất cả những gì ông vẽ về Brno vẫn còn nguyên vẹn. Đó là một kỳ tích với người bị mất đi trí nhớ.
Bà là khách của tôi. Bà nghỉ trong phòng cha tôi, lặng lẽ lau dọn mà không làm tổn thương bất cứ thứ gì. Bà chăm ong, trồng oải hương, đi chân đất khắp nơi và nói chuyện với dân làng thứ tiếng Pháp tự học. Bà nấu ăn, học làm bánh Pháp, và lên cả gấu quần, đơm lại cúc áo cho tôi. Chưa có ai làm cho tôi những điều ấy, trừ ba tôi.
Dì tôi, chị vũ công- cũng đã bỏ đi. Mẹ tôi không bao giờ tha thứ cho ba- người đã làm tổn thương bà vì suốt đời không đón nhận sự si mê của bà. Chỉ có người đàn bà ở Brno muốn ở lại, lấp đầy, và trả lại cho nơi này sức sống.
Cuối cùng, chúng tôi cũng phải nói lời chia tay. Bà đã ở đây gần một năm.
“Cám ơn cháu đã chấp nhận cô”- bà bảo.
“Không ạ. Là cháu phải cám ơn cô đã cho bố được yêu mà không thất vọng.”
Tôi nói thêm: “bất cứ khi nào muốn, cô hãy đến đây. Chìa khoá luôn để dưới thảm. Bố cháu luôn mong cô.”
Bà hỏi: “lần sau cô sẽ đi cùng con gái nhé? Nó cũng vẽ. Và rất thích Provence.”
“Ngày cháu học ở Berlin, cháu cũng rất thích một cô gái…. Nhưng cháu chưa bao giờ dám nói gì. Cháu chỉ vẽ…”
Tôi bỗng im bặt. Bà cũng sững người nhìn tôi.
Tôi nhận ra, tôi đang đi vào vết xe đổ của cha tôi.
Bà bảo: cho phép cô được xem các bức vẽ của cháu.
Tôi mời bà vào phòng riêng của tôi. Nơi chất chồng nào tranh, nào toan, lẫn giữa những bức hoạ khoả thân nổi loạn là em, người con gái tôi yêu mà không dám đến.
Bà đứng đó, sắc mặt bỗng tái đi.
Rồi bà nói, rất chậm, rất khẽ, như sợ làm mọi cái bị đảo lộn: đây là con gái tôi!
Phải, cháu và con gái cô cùng học một trường. Lẽ ra cô phải nhận ra ngay điều đó.
.
Tôi lục tìm bức tranh ưng ý nhất, đưa cho bà:
“Cô giúp cháu…”
“Không, cháu à,” bà nói, giọng trầm và ấm như tiếng ong đập cánh sau hè: “Cháu hãy tự đưa. Đừng làm như cha cháu… yêu một người đến suốt đời nhưng không đủ can đảm để nói một lời.”
Sáng hôm sau, bà rời đi. Khi bước xuống bậc thềm, bà quay lại, nói khẽ, nhưng đủ để tôi và chính bà nghe rõ:
“Cô gái nào cũng từng chờ một người nói lời yêu mình. Chỉ là, người đó có dám hay không.”
–
Tác giả : Kiều Thị An Giang
Bài viết NGƯỜI ĐÀN BÀ Ở BRNO đã xuất hiện đầu tiên vào ngày TÌNH YÊU và NỖI NHỚ.